Với vị trí đặc biệt như vậy, Okinawa đã sớm tiếp nhận những ảnh hưởng văn hóa đến từ Trung Quốc, Nhật Bản và ở các nước Đông Nam Á.
Cuộc tiếp xúc chính thức đầu tiên giữa Trung Quốc và quần đảo Ryukyu diễn ra vào thế kỷ thứ 6. Hoàng đế Trung Quốc đã trang bị tàu bè, khí giới cho thủy quân đi chinh phạt một số hòn đảo ở Biển phía Đông Trung Quốc, trong đó có đảo Okinawa.
Vào thế kỷ thứ 7, Trung Quốc chính thức công nhận nền độc lập của Nhật Bản.
Những phái đoàn ngoại giao Trung Quốc sang Nhật, hoặc phái đoàn Nhật sang Trung Quốc, thường xuyên qua lại trên vùng biển này, mà Okinawa là điểm dừng chân để nghĩ ngơi rất thích hợp.
Năm 1372, vua Sato của Okinawa thần phục Hoàng đế Trung Hoa (Minh Thái Tổ), đưa lãnh thổ này đến địa vị một nước chư hầu, mở rộng cửa đón nhận ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc.. Trong nhiều thế kỷ sau đó, môn Kempo (Quyền pháp) của Trung Quốc đã tìm đường vào quần đảo Ryukyu, tạo nên một đấu pháp đặc biệt, có tham khảo đòn thế của môn Tode (môn võ chiến đấu của người Okinawa thời cổ)
Năm 1492, Okinawa trở nên một vương quốc thống nhất dưới quyền cai trị của vua Hashi. Ý thức về vị trí hẻo lánh của vương quốc mình, đồng thời học hỏi đường lối cải thiện kinh tế của Minh Triều, Hashi mở rộng giao thương với các quốc gia khác. Trong hai thế kỷ sau đó, ba thành phố lớn của Okinawa là Shuri, Naha và Tomari trở thành những trung tâm của các trục giao thông hang hóa; hang của Ấn Độ, của các nước Đông Nam Á tấp nập đưa tới Okinawa.
Cuộc giao thương này có ảnh hưởng lớn đến nền võ thuật Okinawa, vì dân bản xứ được tiếp xúc với các giới thương hồ Ả Rập, Mã Lai, Nam Dương, Thái Lan … thường lui tới ba trung tâm thương mại này.
*Võ thuật Trung Quốc đã theo những phái bộ ngoại giao mà du nhập vào Okinawa.
*Các Samurai Nhật thường đi theo hộ tống các phái đoàn Nhật đi Trung Quốc, khi ghé ngang Okinawa cũng đã truyền bá một số kỹ thuật của võ thuật cổ truyền Nhật Bản.
*Các thương thuyền từ các nước Đông Nam Á, Ấn Độ trên các chuyến hải hành cũng đã ghé đến Okinawa và đã đưa vào hòn đảo này các kỹ thuật chiến đấu của các nước Đông Nam Á và Ấn Độ.
*Nhưng quan trọng nhất, là ngay trên hòn đảo Okinawa, từ rất lâu đã tồn tại kỹ thuật chiến đấu của người dân ở trên đảo mà họ gọi là Tode.
Như vậy, trên nền tảng môn võ Tode đã có từ lâu trên hòn đảo Okinawa, cộng với ảnh hưởng của võ thuật cổ truyền Trung Quốc, Nhật Bản và các nước Đông Nam Á đã hình thành nên môn võ của người dân trên đảo Okinawa mà họ gọi môn võ này là Okinawate (môn võ của người Okinawa).
Môn võ “Okinawate” phát triển mạnh mẽ bắt đầu từ sau thế kỷ 17, khi Okinawa thuộc quyền thống trị của các lãnh chúa Nhật Bản (Lãnh chúa Satsima). Lúc này tầng lớp thống trị đã cấm ngặt người dân Okinawa sử dụng khí giới và các dụng cụ bằng kim loại sắc bén để triệt tiêu mọi mầm mống nổi dậy của người bản xứ.
Môn võ Okinawate trở nên bí truyền. Người dân Okinawa tập luyện trong vòng bí mât. Môn võ này trở nên vô cùng khủng khiếp vì mục đích duy nhất của người tập là giết chết ngay, nếu không được thì ít ra cũng đánh cho quân thù tàn tật suốt đời.
Trước tình hình đó, người dân Okinawa đã bí mật và tích cực phát triển kỹ thuật chiến đấu bằng tay không, và cạnh đó họ còn chế ra các binh khí bằng gỗ như Nunchaku, Bo, Tonfa … để chiến đấu hữu hiệu với kẻ thù. Như vậy, một môn võ có tên gọi là Okinawate được biết đến nhiều trong giai đoạn này. Người dân Okinawa đã tập luyện tay chân của họ trở nên sắc bén như gươm, dao, giết người dễ dàng.
Đến thế kỷ thứ 19, đã có nhiều võ đường Okinawate được thành lập, trong đó có 3 địa danh phát triển nhất về môn võ này là: Naha, Shuri và Tomari. Có nhiều võ sư giỏi đã phát xuất từ đây.

Mãi đến năm 1903, môn võ của người Okinawa chính thức được biểu diễn công khai dưới cái tên là Karate.
Trong tiếng Nhật ngày nay, chữ Karate được viết bằng hai chữ 空手 (Không Thủ), có nghĩa là môn võ dung tay không chứ không dung binh khí (mặc dầu về sau, binh khí lại được sử dụng nhiều cho các môn đồ cao đẳng của môn võ này). Giống như nhiều môn khác ở Nhật Bản (Trà đạo, Thư đạo, Cung đạo, Kiếm đạo, Côn đạo, Hoa đạo ...), karate được gắn thêm vĩ tố "Đạo", phát âm trong tiếng Nhật là "DO" (viết là 道). Vì thế, có tên Karate-Do.
Năm 1904, Karate-Do được chính thức huấn luyện tại các trường công lập ở Okinawa, là một môn học trong chương trình thể dục học đường.

2.KARATEDO PHÁT TRIỂN MẠNH TRÊN THẾ GIỚI:
Từ miền “đất Tổ” Okinawa, Karatedo đã phát triển ồ ạt tại Nhật Bản. Có thể nói đây là miền đất hứa của nó. Và từ Nhật Bản, môn võ Karratedo đã được truyền ra khắp Thế Giới.
Năm 1922, Hiệp Hội võ sư Nhật Bản tổ chức biểu diễn võ thuật và đã chính thức mời các võ sư Okinawa cử đại diện tới tranh tài cùng các võ sư Ju-Jitsu. Võ giới Okinawa đáp ứng lời mời và cử một giáo sư ngôn ngữ 51 tuổi, vóc người nhỏ bé làm đại diện sang Tokyo. Đó là giáo sư Funakoshi Gichin. Sở dĩ Funakoshi được chọn vì thông thạo tiếng Nhật và am tường các nghi thức xã giao. Vị giáo sư lịch thiệp và nhỏ bé này đã xuất hiện trên các đấu trường Tokyo như một vầng sáng chói lòa. Ông dành chiến thắng liên tục trong mọi cuộc giao đấu với những đòn thế siêu đẳng.
Cuộc hội kiến võ thuật của Hiệp Hội võ sư Nhật Bản đã trở thành dịp tuyền bá tiếng tăm của môn võ Karate và giáo sư Funakoshi không thể rời đất Nhật Bản vì sự trọng vọng cùng những tình cảm lưu luyến của giới võ thuật tại đây. Ông ở lại Tokyo mở võ đường lấy tên là Shotokan. Cái tên này về sau đã gắn hẳn vào môn Karate và trở thành một hệ phái lớn của môn võ.
Năm 1931, một người mà sau này đã có công rất lớn trong việc phát triển môn võ Karate trên Thế Giới là Nakayama, đã tới yết kiến Funakoshi và xin được thâu nhận làm môn sinh.
Năm 1940, tất cả các môn sinh của Funakoshi quyết định thành lập “Hệ phái Shotokan”. Giáo sư Funakoshi bấy giờ đã 78 tuổi được mời giữ chức Võ sư danh dự của Tổng Hội, Saigo làm Chủ tịch và Obata làm Giám đốc. Nakayama lúc này mới 36 tuổi, thuộc thế hệ môn sinh đàn em, nhưng có biệt tài về tổ chức, nên đã được giao cho soạn thảo chương trình kỹ thuật và tổ chức điều hành Tổng Hội.
Năm 1954, Obata quyết định từ chức, nhường ghế điều hành Tổng Hội cho lớp trẻ là Nakayama và Nishiyama. Lập tức, nhiều cải cách lớn đã được đề ra mà điều đầu tiên là đổi tên Tổng Hội thành “Hiệp Hội Karate Nhật Bản” (Japan Karate Association – JKA). Nakayama và Nishiyama cũng đưa ra các điều kiện để được cấp đẳng và chính thức hóa hệ thống đẳng cấp. Những cải cách của hai ông đã đưa tới một số va chạm trong nội bộ vì có nhiều người không tán thành.
Điều gây ra bất đồng lớn nhất là những ý kiến về phát triển đối luyện có giao ước và tự do. Một số đông bảo thủ quan điểm đã được tiếp nhận từ vị ân sư Funakoshi, không muốn có các cuộc giao đấu tự do trên võ đài, trong khi Nakayama và Nishiyama chịu ảnh hưởng của Yoshitaka Funakoshi (con trai lớn của Funakoshi) cho rằng, chính các giải thi đấu sẽ khiến bộc phát nhiều điều hữu ích cho việc tăng tiến kỹ thuật, và làm cho Karate sẽ có điều kiện phát triển nhanh chóng hơn.
Những người phản đối đã kiên thủ lập trường của mình, nhưng Nakayama và Nishiyama cũng không nhượng bộ. Sự bất khả hòa giải này đã khiến hệ phái Shotokan phân thành nhiều nhóm, dù lúc đó giáo sư Funakoshi vẫn còn sống. Khi các phần tử bất đồng rời khỏi Hiệp Hội giao trọn quyền điều hành cho Nakayama thì Nakayama cũng chưa dám tổ chức một cuộc tranh giải nào, dù ông đã vì bênh vực cho quan điểm đó mà bị nhiều đồng môn xa lánh. Sự trì hoãn tổ chức các giải thi đấu về sau được Nakayama giải thích là do còn có sự hiện diện của vị ân sư Funakoshi. Dù ân sư không bày tỏ ý kiến nào trước các cuộc tranh cải của môn sinh, nhưng Nakayama chưa quên quan điểm của thầy mình là không chấp nhận tổ chức các cuộc thi đấu.
Giải thi đấu đầu tiên là giải vô địch Karate Nhật Bản chỉ được tổ chức vào tháng 10 năm 1957, tức là sáu tháng sau khi giáo sư Funakoshi từ trần. Trong kỳ tranh giải này, Hirokazu Kanazawa đoạt giải vô địch và giải thi đấu này đã gặt hái thành công vượt bậc. Tuy nhiên, khi được hỏi: ”Ông phải đợi đến khi thầy Funakoshi tạ thế rồi mới tổ chức cuộc tranh giải vô địch Karate đầu tiên là vì sợ thầy, Ông thấy thế nào?”
Đại sư Nakayama đã trầm ngâm rất lâu rồi cho biết:
“Đúng vậy, tôi sợ thầy tôi. Tôi biết rằng, thầy tôi chống lại việc thi đấu và tôi sợ phản ứng của ông. Cho đến ngày hôm nay, tôi vẫn còn sợ ông. Đôi khi tôi tự hỏi: “Thầy Funakoshi nghĩ sao về việc này? Mình có làm bậy không?” và tôi cố gắng làm những gì nếu còn sống ông chịu làm … Tôi nghĩ rằng, nhờ có tranh giải thi đấu mà môn Karate trở nên phổ biến trên Thế Giới. Đó chính là điều cốt yếu mà thầy Funakoshi mong muốn. Thế cho nên, ngày hôm nay tôi nghĩ rằng, nếu tôi sai lầm, ngày tôi qua đời, ngày tôi đi gặp thầy tôi ở thiên đàng … ngày đó, ở trên cao xanh kia, sẽ có một trận “song đấu” ác liệt; Và có lẽ phần tôi lúc đó đã có gan làm thì phải ráng mà chịu thôi …”
Nakayama đã làm việc không biết mệt mỏi để đào tạo huấn luyện viên và gởi tới khắp các nơi trên Thế Giới. Bước vào thập niên 60 của thế kỷ XX, Nakayama đã có thể tìm thấy sự hài lòng trước sự phổ cập của kỹ thuật Karatedo trên hầu khắp mặt địa cầu. Chỉ nói riêng ở Tây Âu, Karatedo không thể phát triển được như ngày nay nếu không có những võ sư như Enoeda (ở Scotland), Shirai (ở Ý), Ochi (ở CHLB Đức), Sugimura (ở Thụy Sĩ), Miyazaki (ở Bỉ), Teji Kase (ở Pháp), Kanazawa …
Ở châu Mỹ, Karatedo cũng phát triển rất mạnh, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, nhờ có nhiều võ sư danh tiếng như Nishiyama, Yamashita, Fumio Demura …
Chỉ vừa tròn 40 năm, tính từ ngày giáo sư Funakoshi đơn thân rời Okinawa sang Nhật, môn Karatedo đã thực hiện những bước tiến đầy tính chất thần thoại. Karatedo chính thức được Thế Giới biết đến khi giáo sư Funakoshi đưa môn Okinawate vào Nhật Bản, chuẩn hóa, hệ thống hóa, nhấn mạnh khía cạnh võ đạo để biến Karatedo thành một môn võ hoàn hảo, vừa chú trọng mặt võ thuật, vừa chú trọng mặt võ đạo.
Chính vì vậy, FUNAKOSHI được xem là TỔ SƯ của KARATEDO HIỆN ĐẠI.
3.SỰ PHÂN HÓA CỦA CÁC HỆ PHÁI:
Song song với sự phát triển mạnh của Karatedo trên Thế Giới là sự phân hóa thành nhiều hệ phái Karatedo khác nhau. Sự phân hóa thành các hệ phái này, thật sự đã bắt nguồn từ khi môn võ này còn mang tên là Okinawate. Bởi vì lúc này, Okinawate được chú ý nhất tại 3 trung tâm: Naha, Shuri, Tomari. Các võ sư ở Shuri với những kỹ thuật thiên về tốc độ, ở Tomari thiên về sức mạnh, còn ở Naha chú ý nhiều về quyền pháp.
*Tùy theo xuất xứ của các võ sư (ở Naha, Shuri hoặc Tomari) trước khi vào Nhật Bản để tuyền bá Karatedo mà ảnh hưởng đến sự hình thành các hệ phái Karatedo.
*Tùy theo yêu cầu phát triển ảnh hưởng của môn phái, đặc điểm của từng địa phương cũng ảnh hưởng đến sự hình thành của các hệ phái Karatedo.
Sau đây là một số hệ phái Karatedo lớn trên Thế Giới:
- SHOTOKAN:
* Thành lập năm 1922. (Chính thức năm 1949).
* Võ sư danh dự: Funakoshi Gichin; Chủ tịch Saigo; Giám đốc: Obata.
- GOJU-RYU:
Năm 1928, Chojun Miyagi ở Okinawa đến Nhật Bản để truyền bá Karatedo Cương Nhu. Tại đây ông ta đã gặp một đệ tử rất đắc ý là Gogen Yamaguchi. Yamaguchi được xem là người đã có công truyền bá rộng rãi Karatedo thuộc hệ phái Goju trên Thế Giới
* Thành lập năm 1920 tại Naha.
* Võ sư sáng lập: Chojun Miyagi. Truyền nhân: Yamaguchi.
* Đặc điểm: phối hợp cương nhu.
- SHITO-RYU:
* Thành lập năm 1930 tại Kyoto.
* Võ sư sáng lập: Kenwa Mabuni.
* Đặc điểm: chú ý nhiều đến vũ khí (Nunchaku, Tonfa, Bo, Sai, Kama …)
-WADO-RYU:
* Thành lập năm 1935. Phân ly từ Shotokan.
* Võ sư sáng lập: Hirinori Otsuka. (học trò của Funakoshi)
* Đặc điểm: chú ý nhiều đến Jyu Kumite.
- KYOKUSHINKAI:
* Thành lập năm 1958. Phân ly từ Shotokan.
* Võ sư sáng lập: Matsutatsu Oyama.
* Đặc điểm: chú ý nhiều về “cương” trong Karatedo.
- SHORIN-RYU:
* Thành lập đầu thế kỷ XX.
* Võ sư sáng lập : Matsumura. Truyền nhân: Hohan Soken.
* Đặc điểm: Hukusuru (Hạc quyền)
- UECHI-RYU:
* Thành lập đầu thập niên XX.
* Võ sư sáng lập: Uechi Kabun.
* Đặc điểm: chú trọng nhiều về nội công.
* Chính từ hệ phái này. Võ sư Choji Suzuki đã truyền bá Karatedo vào Việt Nam với cái tên hệ phái được lưu truyền ở Việt Nam là SUZUCHO-RYU.
Có thể hệ thống hóa sự phát triển các hệ phái Karatedo trên Thế Giới qua sơ đồ sau:

Hiện nay, trên Thế Giới có trên 100 hệ phái Karatedo khác nhau.
4.KARATEDO DU NHẬP VÀO VIỆT NAM:
Tại Việt Nam, con đường truyền bá chính thức của môn võ Karatedo do võ sư người Nhật Bản Choji Suzuki. Võ sư sinh ngay 10 tháng 06 năm 1917 tại Miyagiken (cùng quê quán với Gogen Yamaguchi). Từ lúc thiếu thời, võ sư tập luyện qua hệ phái Uechi-Ryu. Sau đó thầy học tập và nghiên cứu qua nhiều hệ phái khác nhau. Thầy Suzuki sang Việt Nam năm 1940.
Sau năm 1945, Võ sư Suzuki nhập quốc tịch và ở lại Việt Nam lấy tên Việt Nam là Phan Văn Phúc, kết hôn với một phụ nữ ở Huế.
Năm 1960, Võ sư Suzuki chính thức mở Đạo đường tại số 8 đường Võ Tánh, thành phố Huế để truyền bá Karatedo và Judo. Thầy đã đào tạo được nhiều môn đồ nổi tiếng như: Hạ Quốc Huy (9 đẳng ở Mỹ), Nguyễn Xuân Dũng (8 đẳng, ở Mỹ), Khương Công Thêm (8 đẳng), Lê Văn Thạnh (8 đẳng), Nguyễn Văn Dũng (7 đẳng) … và các môn đồ này tiếp bước thầy đưa Karatedo ngày càng phát triển ở Việt Nam.
Năm 1978, Thầy Suzuki trở về Nhật Bản. Sau đó thầy vẫn tiếp tục tập luyện và giúp đỡ các môn đồ phát triển Karatedo tại Việt Nam. Thầy mất năm 1995. Trước khi mất, thầy đã truyền chức Chưởng môn cho người con trai lớn của thầy.
Ngoài ra, ở thành phố Hồ Chí Minh năm 1966 có võ sư Hồ Cẩm Ngạc sau khi học Karatedo thuộc hệ phái Kyokushinkai tại Nhật Bản đã về phát triển Karatedo tại một số tỉnh miền Nam.
Từ những năm 90 của thế kỷ XX, ở Hà Nội qua con đường hợp tác và giao lưu về thể dục thể thao, môn võ Karatedo thuộc hệ phái Shotokan đã có dịp du nhập vào Việt Nam.
Đến nay, môn võ Karatedo đã có mặt trên 45 tỉnh, thành, ngành. Mặc dầu có đến 6 hệ phái Karatedo ở Việt Nam hiện nay, nhưng với sự nổ lực của Liên đoàn lâm thời Karatedo Việt Nam và của Bộ môn Karatedo của Tổng cục TDTT, chương trình huấn luyện và thi đấu môn võ này dần dần được thống nhất trên cả nước.
Ở tỉnh Khánh Hòa, Karatedo đã bắt đầu xuất hiện tại trường THPT Nguyễn Văn Trỗi, Nha Trang, Khánh Hòa do võ sư Nguyễn Tấn Kiệt huấn luyện. Những võ sinh Karatedo đầu tiên này, ngày nay đã trở thành những huấn luyện viên vững vàng, cùng với người thầy của mình đưa môn võ Karatedo phát triển rộng khắp các huyện, thị, thành phố trong tỉnh Khánh Hòa. Nhiều sân tập Karatedo lần lượt xuất hiện ở Nha Trang với nhiều đối tượng tham gia tập luyện, nhưng đông nhất vẫn là học sinh, sinh viên. Từ NhaTrang, phong trào tập luyện Karatedo phát triển nhanh chóng đến các huyện Diên Khánh, Khánh Vĩnh, Vạn Ninh, Cam Lâm, thị xã Ninh Hòa, thành phố Cam Ranh.
Để có thể hội nhập với phong trào Karatedo trên toàn quốc cũng như quốc tế và cũng để góp phần đào tạo một thế hệ thanh thiếu niên vừa khỏe về thể chất, vừa mạnh về tinh thần, Karatedo Khánh Hòa chủ trương vừa phát triển phong trào vừa phát triển đỉnh cao.
Năm 1997, UBND tỉnh Khánh Hòa cho phép thành lập Hội Karatedo tỉnh Khánh Hòa với ban chấp hành 9 người. Từ đây, Karatedo Khánh Hòa đã phát triển khá mạnh với trên 50 huấn luyện viên và hàng trăm võ sinh thường xuyên luyện tập trên 25 sân tập trong tỉnh.
Với một BCH Hội nhiệt tình có đầy đủ năng lực và tập thể huấn luyện viên đoàn kết, nhiều hoài bão, hy vọng trong thời gian tới Karatedo KhánhHòa vẫn tiếp tục phát triển nhằm góp phần đưa môn phái và phong trào Karatedo toàn quốc lên những bước cao hơn nữa./.